Chửa ngoài tử cung là gì? Các công bố khoa học về Chửa ngoài tử cung

Chửa ngoài tử cung, hay còn gọi là thai ngoài tử cung, là một trạng thái khi thai nhi phát triển và bám vào các vị trí khác ngoài tử cung. Thông thường, thai nh...

Chửa ngoài tử cung, hay còn gọi là thai ngoài tử cung, là một trạng thái khi thai nhi phát triển và bám vào các vị trí khác ngoài tử cung. Thông thường, thai nhi phát triển trong tử cung và sau đó di chuyển vào tử cung để tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, trong trường hợp chửa ngoài tử cung, thai nhi không thể di chuyển vào tử cung mà phát triển trong các vị trí như tử cung cổ, ống dẫn trứng hay buồng trứng. Hiện tượng này gây ra những biến chứng và nguy hiểm cho sức khỏe của phụ nữ mang thai.
Chửa ngoài tử cung, hay còn gọi là thai ngoài tử cung, là một trong những loại chưa ngoại tử cung phổ biến nhất. Thông thường, sau khi trứng phôi được thụ tinh trong tử cung, nó sẽ di chuyển qua ống dẫn trứng để đến tử cung và bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, trong trường hợp chửa ngoài tử cung, trứng phôi không thể di chuyển đến tử cung và bám vào các vị trí ngoài tử cung.

Có ba loại chửa ngoài tử cung phổ biến:

1. Chửa trong ống dẫn trứng: Đây là loại chửa ngoài tử cung phổ biến nhất, khi trứng phôi bám vào thành ống dẫn trứng thay vì vào tử cung. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, ống dẫn trứng có thể bị vỡ, gây ra chảy máu nội tiết lên trong và tình trạng nguy hiểm đe dọa tính mạng.

2. Chửa trên tử cung cổ: Trong trường hợp này, trứng phôi bám vào vùng giữa tử cung và ống dẫn trứng. Đây cũng là một dạng hiếm gặp của chửa ngoài tử cung.

3. Chửa trong buồng trứng: Đây là loại chửa ngoài tử cung hiếm gặp nhất, khi trứng phôi được bám vào buồng trứng thay vì vào tử cung hoặc ống dẫn trứng. Khi đó, thai kỳ không thể tiếp diễn và phải được chấm dứt bằng phẫu thuật.

Chửa ngoài tử cung có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng như chảy máu nội tiết, thiếu máu, nhiễm trùng và nguy cơ vỡ tử cung. Triệu chứng của chửa ngoài tử cung có thể bao gồm đau bên dưới bụng, chảy máu âm đạo, chóng mặt và đau vùng vai. Nếu có những triệu chứng này, phụ nữ cần đến bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Chi tiết hơn về chửa ngoài tử cung:

Nguyên nhân: Chưa ngoại tử cung thường xảy ra khi có sự cản trở trong quá trình di chuyển của trứng phôi từ ống dẫn trứng vào tử cung. Các nguyên nhân có thể là:

1. Tắc ống dẫn trứng: Sự tắc nghẽn ống dẫn trứng do viêm nhiễm, xơ vữa, polyp hoặc khối u có thể khiến trứng phôi không thể đi qua và bám vào thành ống dẫn trứng.

2. Bất thường về cấu trúc tử cung hoặc ống dẫn trứng: Các vấn đề bẩm sinh hoặc bị tổn thương do phẫu thuật, triệu chứng của bệnh lý hoặc chấn thương có thể tạo ra môi trường không thuận lợi cho trứng phôi di chuyển đến tử cung.

3. Yếu tố nội tiết: Một số tình trạng sức khoẻ như u xơ tử cung, viêm gan B, viêm túi tử cung,... có thể tăng nguy cơ chửa ngoài tử cung.

Triệu chứng: Một số triệu chứng thường gặp của chửa ngoài tử cung bao gồm:

1. Đau bên dưới bụng: Đau có thể lan ra một bên hoặc cả hai bên bụng và thường diễn biến nghiêm trọng khi thai kỳ tiến triển.

2. Chảy máu âm đạo: Một lượng chảy máu âm đạo không bình thường, thậm chí có thể là chảy máu lớn, có thể xảy ra khi chửa ngoài tử cung.

3. Đau vùng vai: Đau vùng vai có thể là triệu chứng của chửa ngoài tử cung khi thai nhi phát triển trong vị trí không phải tử cung.

4. Các triệu chứng khác: Mệt mỏi, buồn nôn, nôn mửa, chóng mặt, hoặc các triệu chứng khác có thể xuất hiện nhưng không đặc hiệu cho chửa ngoài tử cung.

Chẩn đoán và điều trị: Chẩn đoán chửa ngoài tử cung đòi hỏi xét nghiệm và quan sát kỹ càng. Các phương pháp chẩn đoán có thể bao gồm siêu âm, xét nghiệm máu để đo nồng độ hCG (hormone β-human chorionic gonadotropin) và các xét nghiệm điều chỉnh khác.

Đối với chửa ngoài tử cung, phương pháp điều trị phổ biến nhất là phẫu thuật để gỡ bỏ thai ngoài tử cung, nhưng phụ thuộc vào tình trạng của bệnh nhân và tình hình thai kỳ. Đôi khi, thuốc methotrexate cũng có thể được sử dụng để giảm kích thước của thai ngoài tử cung hoặc làm mất nó vào tự tử cung.

Xử lý chửa ngoài tử cung là rất quan trọng để ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng như chảy máu trong bụng và mất máu nhiều. Việc đi kiểm tra sức khỏe định kỳ và nhận chăm sóc tiền sản trong khi mang thai là quan trọng để ngăn ngừa chửa ngoài tử cung.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chửa ngoài tử cung":

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CHỬA NGOÀI TỪ CUNG TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị chửa ngoài tử cung tại Bệnh viện Quân y 103 trong 2 năm (2020-2022). Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu tiến cứu cắt ngang trên 111 bệnh nhân chửa ngoài tử cung điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 6/2020 đến tháng 5/2022. Kết quả:  Tuổi trung bình là 32,68 ±5,55 tuổi, từ 25-35 tuổi chiếm 54%, 74,78% bệnh nhân được điều trị bằng phẫu thuật nội soi, 27,72% điều trị bằng phẫu thuật mổ mở, còn lại là điều trị nội khoa bằng methotrexat (MTX) (4,5%). Bệnh nhân được nhân từ 1-3 liều MTX, 65,22% bệnh nhân dùng 1 liều MTX.  Có 97,73% cắt vòi tử cung chứa khối thai, bảo tồn vòi tử cung chiếm 2,27%. Thời gian trong phẫu thuật dưới 60 phút chiếm tỉ lệ 84,09%, thời gian trung bình mổ mở là 47,2±3,03 phút, phẫu thuật nội soi là 55,73±16,58 phút. Thời gian nằm viện trung bình điều trị bằng MTX là 6,65±2,93 ngày, điều trị bằng mổ mở 5±2,12 ngày, phẫu thuật nội soi là 3,47±0,89 ngày. Kết luận: tỉ lệ điều trị nội khoa 27,72%, mổ mở 4,5%, phẫu thuật nội soi 74,78%. Phẫu thuật nội soi điều trị chửa ngoài tử cung có thời gian nằm viện trung bình ngắn nhất, sự khác biệt với mổ mở và điều trị nội khoa có ý nghĩa thống kê. Chỉ định điều trị nội khoa đơn liều ở các trường hợp CNTC chưa vỡ, không có triệu chứng lâm sàng, siêu âm khối thai dưới 3,5cm, chưa có phôi, nồng độ βhCG máu dưới 3000mUI/ml, tỉ lệ thành công với phác đồ đơn liều là 100%. Chỉ định PTNS điều trị CNTC ở các trường hợp không còn chỉ định điều trị nội khoa, những trường hợp khối thai vỡ có sốc đã hồi sức, huyết áp ổn định. Chỉ định PTMB điều trị CNTC những trường phợp sốc mất máu, huyết động không ổn định sau khi đã hồi sức tích cực.
#Chửa ngoài tử cung #nồng độ βhCG #mô mở #phẫu thuật nội soi
Nhận xét các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân chửa ngoài tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, quý IV năm 2017
Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng chửa ngoài tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang với đối tượng là những phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nghi ngờ chửa ngoài tử cung vào điều trị tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2017. Kết quả: Chửa ngoài tử cung gặp nhiều nhất ở lứa tuổi từ 25 - 39 tuổi. Trong tiền sử sản phụ khoa, tiền sử nạo hút, sẩy thai chiếm tỷ lệ cao nhất 63,8%. Triệu chứng rối loạn kinh nguyệt, ra máu âm đạo và đau bụng phổ biến nhất. Trong 191 bệnh nhân chửa ngoài tử cung, khám âm đạo thấy 101 ca có khối nề phần phụ (52,9%), 57 ca di động tử cung đau (29,8%), 47 ca đau cùng đồ sau (24,6%). Hàm lượng β-hCG huyết thanh nhỏ hơn 1000mUI/l chiếm tỷ lệ 59,8%. Trên siêu âm, thấy khối âm vang hỗn hợp cạnh tử cung (62,8%), dịch ở túi cùng sau (41,9%), hình ảnh thai và tim thai (15,2%). Có 178 ca được chẩn đoán kết hợp 3 yếu tố: Lâm sàng, nồng độ β-hCG và siêu âm (93,2%), 13 trường hợp chẩn đoán dựa vào 4 yếu tố: Lâm sàng, nồng độ β-hCG, siêu âm và các xét nghiệm khác (6,8%). Kết luận: Chẩn đoán chửa ngoài tử cung cần kết hợp nhiều yếu tố, quan trọng nhất là lâm sàng, định lượng β-hCG và siêu âm.
#Chửa ngoài tử cung #phương pháp chẩn đoán chửa ngoài tử cung
NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN CHỬA NGOÀI TỬ CUNG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 TỪ THÁNG 6/2020 ĐẾN THÁNG 5/2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân chửa ngoài tử cung điều trị tại Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 6/2020 - 5/2022. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu kết hợp tiến cứu, phân tích mô tả trên 111 bệnh nhân CNTC điều trị tại Bệnh viện Quân Y 103 từ 6/2020-5/2022. Có 3 phương pháp điều trị được áp dụng: phẫu thuật mở bụng (PTMB), phẫu thuật nội soi (PTNS) và điều trị nội khoa bằng methotrexat (MTX). Kết quả: Tuổi trung bình 32,68 ± 5,55 tuổi; nghề nghiệp tự do chiếm 45%. Bệnh nhân có 2 con chiếm 54,95%. 45,05% bệnh nhân có tiền sử nạo phá thai, 26,23% bệnh nhân có tiền sử mổ cũ ổ bụng. Đau bụng vùng hạ vị chiếm 95,5%, ra máu âm đạo chiếm 67,57%, chậm kinh chiếm 56,76%. Khám lâm sàng khối nề ở phần phụ đau chiếm 87,39%, túi cùng Douglas đau chiếm 73,87%, có phản ứng cơ thành bụng chiếm 67,57%, tử cung to hơn bình thường chiếm 38,74%, gõ đục vùng thấp chiếm 37,84%. Triệu chứng sốc mất máu chiếm 3,6%. 41,38% bệnh nhân có nồng độ βhCG từ 1000-3000 mUI//ml; 27,59% bệnh nhân có nồng độ βhCG từ 3000-5000 mUI/ml, nồng độ βhCG dưới 1000 mUI/ml có 24,14%, nồng độ βhCG từ 5000 trở lên chiếm 6,9%. 100% bệnh nhân điều trị bằng MTX có nồng độ βhCG  dưới 5000 mUI/mml. Có 55,86% bệnh nhân siêu âm có túi thai ngoài tử cung điển hình, hình ảnh siêu âm khối cạnh tử cung chiếm tỉ lệ 44,14%. Kích thước khối CNTC dưới 3cm chiếm tỉ lệ 79,28%, kích thước túi thai ≥ 3cm chiếm 20,72%.
#Chửa ngoài tử cung #βhCG
Nhận xét chẩn đoán và điều trị chửa kẽ tử cung tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương năm 2015
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 1 - Trang 137 - 141 - 2016
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ chửa kẽ tử cung trong số chửa ngoài tử cung; Phân tích các khó khăn trong chẩn đoán và điều trị chửa kẽ tử cung. Phương pháp: thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: chửa kẽ tử cung chiếm tỷ lệ 1,95% chửa ngoài tử cung điều trị tại viện; tỷ lệ chẩn đoán đúng trước phẫu thuật đạt 91,5%; tỷ lệ phải đốt điện kết hợp khâu qua nội soi khi phẫu thuật chửa kẽ tử cung là 66,7%; phẫu thuật nội soi chiếm đa số 87,09%; thời gian hậu phẫu ở nhóm chửa kẽ tử cung là 3,8 + 1,42 thời gian hậu phẫu ở nhóm chửa kẽ tử cung dài hơn so với nhóm chửa vòi tử cung. Kết luận: chẩn đoán chửa kẽ tử cung là chẩn đoán khó, thời gian phẫu thuật và thời gian điều trị hậu phẫu kéo dài hơn so với chửa chửa vòi tử cung khác.
#chửa ngoài tử cung #chửa kẽ tử cung.
The study of abortion up to 12 week of gestation at the Counseling Center Reproductive Health and Family Planning of NHOG 2013
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 199-202 - 2014
Mục tiêu: 1. Mô tả một số đặc điểm nhân trắc học của phụ nữ đi phá thai. 2. Xác định tỷ lệ phụ nữ đã sử dụng BPTT và lý do thất bại . Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng: tất cả các phụ nữ phá thai đến hết 12 tuần tại TT tư vấn SKSS – KHHGĐ BV PSTW năm 2013, loại trừ thai lưu và thai bất thường, với cỡ mẫu thuận tiện n = 5618. Kết quả: Độ tuổi phá thai nhiều nhất từ 18 – 35 tuổi, chiếm tỷ lệ 83%. Phụ nữ đã kết hôn chiếm 71,6%, chưa kết hôn 28,4%. Tuổi thai khi phá thai phần lớn đến hết 8 tuần là 89%, tuổi thai từ 9 - 12 tuần là 11%. Đa số phụ nữ lựa chọn hút thai chiếm 93%, 7% phá thai bằng thuốc. Phụ nữ chưa sinh con phá thai chiếm 31%, đã sinh con chiếm 69%.Điều đáng quan tâm là 45% tổng số phụ nữ phá thai không sử dụng BPTT. Lý do thất bại của việc sử dụng BPTT dẫn đến có thai ngoài ý muốn là sử dụng không đúng hướng dẫn. Kết luận: Phần lớn phụ nữ phá thai ở tuổi thai đến 8 tuần, gần một nửa phụ nữ không áp dụng BPTT.
#chửa ngoài tử cung #biện pháp tránh thai #hút thai chân không #phá thai bằng thuốc
Hiệu quả điều trị methotrexat đối với chửa ngoài tử cung chưa vỡ tại Bệnh viện Phụ Sản Thanh Hóa
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 3 - Trang 104-106 - 2015
Mục tiêu: “ Nhận xét hiệu quả điều trị methotrexat đối với chửa ngoài tử cung chưa vỡ tại bệnh viện phụ sản Thanh hóa”. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cỡ mẫu: 62 bệnh nhân chửa ngoài tử cung được điều trị nội khoa bằng methotrexate trong 2 năm, từ 1/1/2012 đến 31/12/2013; Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân được chẩn đoán là CNTC chưa vỡ, huyết động ổn định; nồng độ βhCG ban đầu ≤ 5000mUI/ ml; siêu âm đầu dò ÂĐ: buồng TC rỗng, cạnh TC có khối hình nhẫn hoặc khối âm vang hỗn hợp kích thước ≤ 3cm, không có hoạt động của tim thai, dịch cùng đồ ≤ 10mm; Công thức máu, chức năng gan, thận bình thường. Phương pháp nghiên cứu: mô tả hồi cứu Kết quả: Tỷ lệ thành công: 87,1%, trong đó điều trị 1 liều chiếm 44,4%, điều trị 2 liều chiếm 38,9%, điều trị 3 liều chiếm 16,7%. Tỷ lệ thành công: với đau bụng: 76.7%; không: 96.9%. với chậm kinh: 81.4%; không: 100%. Với khối cạnh tử cung khi khám: 81.0%; không: 100%. Nồng độ βhCG càng cao thì tỷ lệ thành công càng thấp.
Tình hình điều trị nội khoa chửa ngoài tử cung tại Bệnh viện Phụ sản trung ương năm 2012
Tạp chí Phụ Sản - Tập 11 Số 3 - Trang 70 - 73 - 2013
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị nội khoa chửa ngoài tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2012. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang hồi cứu, mẫu không xác suất trên 694 hồ sơ bệnh án điều trị nội khoa CNTC chưa vỡ, tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương từ 1/1/2012 đến 31/12/2012. Kết quả: Tỷ lệ điều trị nội khoa CNTC là: 30,9%. Tỷ lệ thành công là 86.7%, trong đó nếu βhCG trước điều trị ≤ 1000UI/l: tỷ lệ thành công là 94,7%, βhCG trước điều trị ≤ 3000UI/l: tỷ lệ thành công là 89,7%, βhCG trước điều trị > 3000UI/l: tỷ lệ thành công là 62,7%. Nguyên nhân thất bại chủ yếu là do CNTC vỡ hoặc rỉ máu nhiều (54,3%) và khối chửa to lên giống như thể huyết tụ thành nang (33,7%). Kết luận: Tỷ lệ thành công phụ thuộc vào nồng độ βhCG trước khi điều trị, nồng độ βhCG càng thấp thì tỷ lệ điều trị thành công càng cao.
13. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị chửa ngoài tử cung bằng Methotrexate đơn liều
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị của bệnh nhân chửa ngoài tử cung bằng methotrexate đơn liều. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Tổng số 108 hồ sơ bệnh án của bệnh nhân chửa ngoài tử cung được điều trị bằng methotrexate đơn liều được nghiên cứu. Kết quả: Đau bụng 53,7%, chậm kinh 68,5%, ra máu 75,9%, chậm kinh - đau bụng - ra máu 31,5%, kích thước tử cung to hơn bình thường 12%, phần phụ có khối 40,7%, cùng đồ đau 11,1%, không có dịch cùng đồ 70,4%, hình ảnh trên siêu âm khối âm vang hỗn hợp 50,9%, kích thước khối chửa < 3cm 88,9%, nồng độ βhCG < 1000IU/l 86,1%, tỷ lệ thành công khi điều trị Methotrexate đơn liều là 92,6%, trong đó nhóm tiêm 1 mũi tỷ lệ thành công 95,8%, nhóm tiêm 2 mũi tỷ lệ thành công 88,0%, nhóm tiêm 3 mũi tỷ lệ thành công là 83,3%. Nghiên cứu không ghi nhận trường hợp nào có biểu hiện tác dụng không mong muốn của thuốc Methotrexate… Tóm lại, đánh giá đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị chửa ngoài tử cung bằng methotrexate đơn liều là cần thiết, qua đó giúp xử trí sớm cũng như tiên lượng được các biến chứng.
#Chửa ngoài tử cung #nội khoa #methotrexate đơn liều
Tổng số: 29   
  • 1
  • 2
  • 3